Truy cập nội dung luôn

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN MINH LONG

Công tác DS-KHHGĐ huyện Minh Long 60 năm qua những thành tựu và thách thức

22/12/2021 15:38    235

60 năm qua, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình luôn được Đảng và Nhà nước ta xem như là quốc sách, là yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII ngày 14/1/1993 về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.

Huyện Minh Long, đã được Huyện ủy, UBND huyện, cụ thể hóa thành chương trình hành động thực hiện NQ 4/BCH TW Đảng, xác định Quan điểm, mục tiêu và giải pháp:

Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu huyện, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.

  Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình là vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến tận người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Huy động lực lượng toàn xã hội tham gia công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh quản lý theo chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực sử dụng có hiệu quả đến tận người dân.

Đến tháng 5/1993 thành lập Ban DS-KHHGĐ huyện Minh Long, do Đồng chí Trần Văn Hổ, Phó chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban, điều Y sỷ Lê Vũ Lương công tác tại Bệnh viện Minh Long sang làm Phó ban chuyên trách; tại xã chọn xã Long Mai làm điểm thành lập Ban DS-KHHGĐ xã, do Đồng chí PCT UBND làm trưởng ban, kiêm chuyên trách, mỗi Tập đoàn, thôn có 1 cộng tác viên Dân số; Đến năm 1995 có 5/5 xã được thành lập Ban DS-KHHGĐ xã, toàn huyện có 52 cộng tác viên Dân số.

Năm 1994 Ủy ban DS-KHHGĐ huyện được thành lập, do đồng chí Vũ Thị Hồng làm chủ nhiệm; Ban Chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ huyện và xã được thành lập có sự phối hợp cả hệ thống chính trị vào cuộc.

Thực trạng lúc bấy giờ (1993) trên địa bàn huyện về nhận thức của người dân quan niệm “trời sinh voi, trời sinh cỏ” xem việc sinh đẻ là quy luật tự nhiên, là việc phòng the, tế nhị riêng tư của các cặp vợ chồng; lúc này số con bình quân mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ 5-6 con, người dân chưa có hiểu biết gì về sinh đẻ có kế hoạch, bệnh viêm nhiễm đường sinh sản cao chiếm tỷ lệ 85-90%, trong lúc điều kiện kinh tế gia đình hầu hết rất khó khăn, nghèo đói, thiếu học, không có việc làm trở thành vòng luẩn khuẩn chưa thoát ra được.

Mặt khác, trong giai đoạn này trên địa bàn huyện công tác vận động thực hiện KHHGĐ ích nước, lợi nhà là việc làm mới nên cán bộ dân số phải "đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng", tìm đến dân để vận động thay đổi hành vi từ sinh đẻ tự nhiên, không kế hoạch sang sinh đẻ có kế hoạch, một giai đoạn mới thật gay go thay đổi hành vi còn khó khăn đến mức nào, như nhận định của Nhà Vật lý thiên tài Albert Einstein nói: "Phá vỡ một định kiến còn khó hơn phá vỡ một nguyên tử".

Huyện tập trung mọi nguồn lực phối hợp Ủy ban DS-KHHGĐ tỉnh quyết liệt đẩy mạnh tuyên truyền nội dung NQ 4/BCH TW Đảng cho cán bộ chủ chốt ngành đoàn thể huyện, xã; đẩy mạnh việc tập huấn kỹ năng truyền thông cho hệ thống làm công tác Dân số cơ sở chuyển tãi nội dung về lợi ích KHHGĐ đến tận người dân. Trung tâm Y tế huyện thành lập đội dịch vụ KHHGĐ lưu động, quyết liệt hàng năm tổ chức 2 đợt ra quân Chiến dịch truyền thông, tư vấn, vận động và lồng ghép đưa các gói dịch vụ KHHGĐ, Làm mẹ an toàn và gói dịch vụ phòng chống viêm nhiễm đường sinh sản miễn phí đến tận người dân tại địa bàn thôn, xã;  Trong các đợt chiến dịch Lãnh đạo Ủy ban dân số huyện chỉ đạo và mua cấp cho mỗi cán bộ tuyên truyền chiến dịch 1 ô che mưa, nắng để khuyến khích đội ngũ này hăng hái ngày đêm vận động đối tượng tham gia chiến dịch; đối tượng ở xa đến với chiến dịch được cấp gói mì tôm ăn trưa đây cũng là cách động viên thu hút đối tượng.

Riêng biện pháp Đình sản Ủy ban DS-KHHGĐ huyện thuê xe vận chuyển đối tượng đăng ký đến Trung tâm BVSKBM/TE-KHHGĐ tỉnh để thực hiện, được hỗ trợ 200.000đ/người.

Năm 1997 Ủy ban DS-KHHGĐ huyện tham mưu cho huyện ủy Minh Long ban hành Nghị quyết chuyên đề số 01-/NQ-HU về thực hiện chính sách DS-KHHGĐ và chế tài xử phạt đối với đảng viên và CBCNVC trên địa bàn huyện, tạo thêm sức lực của cả hệ thống trị và tạo niềm tin cho nhân dân.

Tuy chương trình DS-KHHGĐ mới ban đầu mang tính rập khuôn chung, nhưng đặc thù riêng của huyện tỷ lệ người dân tộc HRE chiếm hơn 2/3 dân số, phụ nữ trong diện sinh đẻ  chiếm tỷ lệ mù chữ cao nên việc tiếp cận thông tin chuyển đổi hành vi rất khó khăn, thường trực UBDS huyện đổi mới phương pháp, xây dựng chương trình mang tính tự phát phù hợp đặc thù riêng của huyện là đưa những đối tượng đã thực hiện Biện pháp tránh thai làm tuyên truyền viên để vận động đối tượng mới tại địa bàn.  Làm tốt công tác tham mưu cho Huyện ủy, UBND huyện chỉ đạo đến các xã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động làm sao để người dân tự giác chuyển đổi hành vi từ nhận thức của người dân quan niệm “trời sinh voi, trời sinh cỏ” sang “ Mỗi cặp vợ chồng sinh từ 1 đến 2 con để nuôi dạy cho tốt”.       

Giai đoạn 2001-2008 một khó khăn nữa có thể nói là đã tác động rất lớn đến ngành, đó là tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ trong giai đoạn này luôn có sự biến động và không ổn định từ Trung ương đến cơ sở. Năm 2002 Uỷ ban DS-KHHGĐ huyện hợp nhất với Uỷ ban bảo vệ chăm sóc trẻ em, bổ sung thêm chức năng Gia đình, thành Uỷ ban DS,GĐ&TE huyện lúc này vừa phải thực hiện cả 3 chức năng Dân số, chức năng gia đình và chức năng trẻ em. Đến năm 2008, Uỷ ban DS,GĐ&TE giải thể, được thành lập Trung tâm DS-KHHGĐ huyện do đồng chí Trần Thị Mỹ Lan làm Giám đốc trung tâm, chức năng quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ được giao về ngành Y tế.

Trong khoảng thời gian này, nhiều khó khăn, thách thức liên tục được đặt ra cần được giải quyết kịp thời. Một bộ phận người dân, trong đó có cả cán bộ, đảng viên hiểu sai, cho rằng công tác DS-KHHGĐ đã kết thúc, dẫn đến việc coi nhẹ công tác này. 

Nhưng sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị với sức mạnh tổng hợp, sự thành công của công tác DS-KHHGĐ đã đạt được làm nền tảng, niềm tin cho những người làm công tác Dân số thêm sức lực, tâm huyết, sự nỗ lực, đoàn kết, sáng tạo của ngành Dân số - KHHGĐ huyện. Điều đó đã giúp ngành dân số huyện vượt qua được những thăng trầm, thử thách, hoàn thành trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao cho. Chỉ tiêu thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại hàng năm đạt và vượt chỉ tiêu, đặc biệt biện pháp đặt vòng và đình sản luôn vượt là huyện đứng đầu trong cụm miền núi của tỉnh về công tác DS- KHHGĐ.

Triển khai, thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam và Chiến lược Quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001-2010 cơ bản huyện Minh Long đã đạt được những mục tiêu đề ra. Xu thế giảm sinh tiếp tục được duy trì và đã đạt mức sinh thay thế sớm hơn kế hoạch. Các mục tiêu giảm sinh đề ra trong Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã đạt sớm hơn dự kiến, đã góp phần rất lớn vào công cuộc xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Đến năm 2010 nhận thức của người dân trong huyện đã chấp nhận thực hiện qui mô gia đình sinh ít con, thông điệp đã đi sâu vào người dân “Mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con, để nuôi dạy cho Tốt”, đã phá vở một định kiến “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Khi mức sinh đã giảm thấp một cách vững chắc, mô hình "gia đình 2 con" trở nên phổ biến.

- Đưa Tỷ suất sinh thô: Năm 1993 từ 19,5‰ xuống còn 16,83‰ vào năm 2010, bình quân hàng năm tỷ lệ sinh giảm 0,16‰.

- Tỷ suất tăng dân số tự nhiên: từ 14,0‰ năm 1993 xuống còn 12,04 ‰ vào năm 2010.

- Tỷ lệ sinh con thứ 3+: Từ 21,4% năm 1993 giảm nhanh còn 7.23% vào năm 2010.

- Tỷ lệ cặp vợ chồng thực hiện BPTT: từ 15,50% năm 1993 tăng lên 67,22% vào năm 2010.

- Số con bình quân của mỗi cặp vợ chồng (CVC) từ 4,2 con/CVC giảm xuống 1,92 con /CVC (số liệu tổng điều tra Dân số, nhà ở năm 2009).

- Được cấp trên khen thưởng cho đơn vị:

 + 01 bằng khen của Thủ Tướng Chính phủ.

+ 02 Bằng khen của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban DS, GĐ &TE Việt Nam.

+ Cờ thi đua của UBND tỉnh Quảng Ngãi năm 2005.

+ 02 Bằng khen của UBND tỉnh Quảng Ngãi.

          Tuy Huyện Minh Long đã kiềm hãm được tốc độ gia tăng dân số, đạt được mức sinh thay thế, nhưng đầu thập niên 20 của thế kỷ XXI huyện Minh Long bộc lộ một số vấn đề, đó là: chất lượng dân số chưa cao, công tác chăm sóc sức khỏe Người cao tuổi còn bất cập, số năm trung bình sống khỏe mạnh chưa cao; Vị thành niên và thanh niên không chỉ thấp bé, nhẹ cân mà yếu cả về sức mạnh cơ bắp, sức dẻo dai và sự bền bỉ; Nhiều vấn đề về sức khỏe sinh sản chưa được giải quyết tốt:  như tỷ số chết mẹ, tỷ suất chết trẻ em và tỷ lệ suy dinh dưỡng…; tử vong sơ sinh vẫn còn khá cao; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt suy dinh dưỡng thể thấp còi còn cao (năm 2009 là >40%); tình trạng tảo hôn khá phổ biến; dự phòng và điều trị các bệnh viêm nhiễm đường sinh sản, bệnh lây qua đường tình dục, vô sinh còn hạn chế; sàng lọc trước sinh, sang lọc sơ sinh để phát hiện bệnh tật, dị tật...cho trẻ sơ sinh để can thiệp sớm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống chưa được đề cập. Tỷ số giới tính khi sinh cao…quan niệm trọng nam khinh nữ còn khá phổ biến trong người dân.

Chương trình Dân số huyện Minh Long, thay đổi nội dung vươn lên những tầm cao mới nhằm thực hiện nhiệm vụ quan trọng, đó là: đảm bảo duy trì ổn định được mức sinh thay thế và tiếp tục thực hiện thắng lợi tinh thần Nghị Quyết 47- NQ/TW ngày 22/03/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chính sách DS-KHHGĐ , để có một quy mô dân số phù hợp mà trong đó từng người dân mạnh khỏe, phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ.

- Năm 2010-2012 Trung tâm DS-KHHGĐ huyện, tham mưu cho UBND huyện Ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án Nâng cao chất lượng Dân số, thông qua việc sàng lọc trước sinh, sang lọc sơ sinh; Đề án giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; Mô hình tư vấn tiền hôn nhân, phòng chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.

Trung tâm DS-KHHGĐ huyện, phối hợp đẩy mạnh công tác tuyên tuyên truyền vận động, chú trọng đến chương trình nâng cao chất lượng dân số, như: tuyên truyền phòng chống tảo hôn ở trường học; xây dựng câu lạc bộ bạn gái tiêu tiểu con một bề học khá, giỏi nhằm khuyến khích nâng cao vị thế trẻ em gái, tổ chức gặp mặt biểu dương gia đình có con 1 bề là gái học khá, giỏi và cha, mẹ phát triển kinh tế gia đình  tốt nhằm lan tỏa để góp phần giảm thiểu tỷ số giới tính khi sinh; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ mang thai thực hiện tốt việc sang lọc trước sinh, sang lọc sơ sinh để sớm phát hiện và thiệp bệnh, tật thai nhi để trẻ em sinh ra có cuộc sống phát triển tốt góp phần vào nâng cao chất lượng dân số.

- Đặc biệt Trung Tâm DS-KHHGĐ tham mưu cho UBND huyện ban hành Công văn số 14/UBND-DS ngày 8/01/2013 của Ủy ban nhân nhân huyện Minh Long về việc phối hợp xây dựng Câu lạc bộ thực hiện Chính sách DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện; Kế hoạch số 05/KH-BCĐ ngày 12/6/2013 của Ban chỉ đạo huyện Minh Long về việc triển khai Mô hình xây dựng câu lạc bộ thực hiện Chính sách DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện Minh Long giai đoạn 2013-2015 và đến năm 2020;

Mô hình Câu lạc bộ “Thực hiện Chính sách Dân số-KHHGĐ” Đây là Mô hình tự phát của huyện, Hội viên tham gia câu lạc bộ đăng ký thực hiện 09 tiêu chí.

Một: Thực hiện không sinh con thứ 3 trở lên;

Hai: Không lựa chọn giới tính thai nhi, thực hiện quy luật sinh đẻ tự nhiên;

Ba: Chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ vị thành niên. Không có trẻ em bỏ học nữa chừng, không tổ chức tảo hôn;

Bốn: Phụ nữ mang thai thực sàng lọc trước sinh, chẩn đoán bệnh tật cho thai nhi;

Năm: Phụ nữ khi sinh đẻ phải đến cơ sở Y tế để được sàng lọc, chẩn đoán bệnh tật cho trẻ sơ sinh;

Sáu: Phụ nữ đăng ký khám phụ khoa định kỳ; lựa chọn áp dụng biện pháp tránh thai hiện đại phù hợp với độ tuổi và số con;

Bảy: Các hoạt động gây quỹ khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái trong học tập, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phát triển sản xuất;

Tám: Không bạo lực gia đình;

Chín: Người cao tuổi được hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe.

+ Năm 2013 khởi đầu là 5 câu lạc bộ tại 5 xã với 278 hội viên ( trong đó: 204 hội viên nòng cốt là cặp vợ chồng, 74 hội viên mở rộng).

+ Đến cuối năm 2015 toàn huyện có 24 câu lạc bộ thực hiện Chính sách DS-KHHGĐ với tổng số Hội viên lên đến 1445 hội viên ( trong đó: 1227 hội viên nòng cốt là cặp vợ chồng, 218 hội viên mở rộng).

+ UBND huyện trích từ nguồn kinh phí 30a hỗ trợ 78.900.000 đồng,

Nhờ sự quyết tâm đồng bộ thực hiện tốt chương trình, kết hợp Mô hình Câu lạc bộ “Thực hiện Chính sách Dân số-KHHGĐ” năm 2015 đưa Toàn huyện lên 20/43 thôn không có người sinh con thứ 3 trở lên, trong đó: 4 năm liền là 02  thôn; 5 năm trở lên là 18 thôn.

        - Năm 2018, Trung tâm DS-KHHGĐ huyện tham mưu cho UBND huyện ban hành Quyết định số 982/QĐ-UBND ngày 5/09/2018 của UBND huyện Minh Long về việc thành lập Ban chỉ đạo Đề án CSSKNCT huyện Minh Long giai đoạn 2017-2025. Kế hoạch số 79/KH-UBND ngày 30/8/2018 của UBND huyện Minh Long về kế hoạch thực hiện Đề án CSSKNCT huyện Minh Long giai đoạn “2017-2025”.

- Từ ngày 01/01/2019 Trung tâm Dân số sáp nhập về Trung tâm Y tế huyện, thành lập Phòng Dân số lúc này Phòng Dân số vừa tham mưu, vừa tổ chức thực hiện duy trì chức năng Dân số & Phát triển theo 6 nhiệm vụ của Nghị quyết 21/NQTW 6 nhiệm vụ mới hơn, đó là: Chuyển đổi trọng tâm từ DS-KHHGĐ sang Dân số & Phát triển, hệ thống làm công tác Dân trước đây chuyển đổi sang các vị trí mới, một số chuyên trách Dân số xã phải nghỉ, thay vào cán bộ Y tế xã kiêm nhiệm; Cộng tác viên Dân số thôn không có tiền phụ cấp (năm 2021) trở thành gánh nặng rất lớn của Phòng Dân số.

Sự vào cuộc của cả hệ thống Chính trị huyện, hệ thống làm công tác Dân số, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân đã tập trung mọi nguồn lực vào tiếp tục ổn định qui mô dân số và đẩy mạnh các hoạt động nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn huyện, đến năm 2021 đã đạt được các kết quả sau:

- Đưa Tỷ suất sinh thô: Đến năm 2021 giảm còn 15.04‰

- Tỷ suất tăng dân số tự nhiên: đến năm 2021 giảm còn 9.87‰

- Tỷ lệ sinh con thứ 3+: đến năm 2021 là 9.45%.

- Tỷ lệ cặp vợ chồng thực hiện BPTT: đến năm 2021 là 67.4%, có 2 BPTT chủ lực là: Dụng cụ tử cung (DCTC) chiếm 61,36%; Đình sản Nữ, Nam chiếm 12,60%, 2 BPTT quyết định tính bền vững về kiềm hãm mức sinh trên địa bàn huyện.

- Số con bình quân của mỗi cặp vợ chồng (CVC) duy trì mức sinh thấp liên tục đến năm 2021 là 1,97con/CVC.

- Tỷ lệ sang lọc trước sinh đạt 45.92% (KH 35%). Tỷ lệ sàng lọc sơ sinh đạt 40.72% (KH 50%).

- Tỷ số giới tính khi sinh 139.13 Nam/100 Nữ, (Tỷ số này vẫn còn cao so trung bình là 103-106 Nam/100 nữ).

          - Người cao tuổi được khám sức khỏe định kỳ đạt 75.68%.

- Số người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế 1.900/1.900 người đạt 100%

Qua 28 năm hình thành và phát triển chương trình DS-KHHGĐ, thành công của Chương trình Dân số - KHHGĐ tác động sâu sắc đến sự phát triển kinh tế, Văn hóa-xã hội của huyện. Đó là sự đóng góp lớn vào sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bền vững về môi trường; đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. 

Trong thời gian đến, Trung tâm Y tế huyện Minh Long tiếp tục bám sát những nội dung quan trọng của Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới, chỉ ra đúng và trúng phương hướng giải quyết những vấn đề dân số nổi bật ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Để thực hiện thành công Nghị quyết, TTYT huyện cần vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm quý, cả thành công và chưa thành công của 28 năm Chương trình DS-KHHGĐ huyện Minh Long, để tiếp tục tham mưu, tổ chức triển khai thực hiện thành công của Nghị quyết số 21-NQ/TW trên địa bàn huyện đến năm 2030./.

 

Vũ Lương

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 1081

Tổng số lượt xem: 16264840